Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

VĂN HÓA CÀ PHÊ NHẬT BẢN

Văn hóa Nhật hết sức quý trọng cái đẹp trong mọi thể hiện của đời sống: từ cái ăn, cái mặc, cái ở, đến sinh hoạt trong tự nhiên, gia đình, xã hội, và cả tâm linh. Tất cả đều được nâng lên bình diện cao cả của một thứ đạo. Võ nghệ thì có cung đạo, kiếm đạo, hiệp khí đạo, nhu đạo, không thủ đạo, võ sĩ đạo… Văn nhã thì có hoa đạo, bồn tài (bonsai) thư đạo, cầm đạo, kỳ đạo, thi đạo, họa đạo, y đạo, trà đạo, thiền đạo, thần đạo… Trung gian còn có vũ đạo (múa), cổ đạo (đánh trống), cờ vây (go),…

Trong tất cả những thứ đó, có lẽ đặc trưng và nổi tiếng nhất là trà đạo (cha no yu) như một nghi thức nghệ thuật, văn hóa trong cả giao lưu và tĩnh tâm để tới trạng thái an nhiên bình dị nhất. Nghi thức uống trà được các thiền sư du nhập từ Trung Quốc vào đời Đường và lên tới đỉnh cao vào thế kỷ 19, trước khi Nhật mở cửa đón nhận văn minh phương Tây từ sự thúc ép của Đô đốc Hoa Kỳ là Perry năm 1853.


Tuy nhiên, nước Nhật với nền tảng là văn minh hải đảo biệt lập phía cực đông của châu Á nên chứa đầy những cực đoan và nghịch lý. Thiên tài của nước này không chỉ về sáng tạo mà là hấp thu, du nhập, biến cải và làm những thứ kia thành tận thiện, tận mỹ, tận tinh xảo. Ngày xưa đối với các nền văn minh Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ thì từ giữa thế kỉ 19 tới nay là văn minh phương Tây.

   
Tất cả những điều này chúng ta có thể nhìn thấy qua bức tranh thu nhỏ của văn hóa cà phê ở Nhật. Nhật biết đến cà phê đầu tiên là vào thế kỉ 19 khi những tàu thương lái của Hà Lan chở từ Java tới. Tuy nhiên quá thấm đẫm với văn hóa uống trà xanh lục nghiền vụn thành bột trong nghi thức đạm bạc của Thiền tông, Nhật vẫn hững hờ với thứ thức uống đen lạ lẫm này.

 Cà phê thực sự chỉ bộc phát từ thập niên 1960. Sau khi thua trận Thế chiến 2 vào năm 1945, Nhật áp dụng chính sách khắc khổ để toàn dân vực dậy sau tro tàn tan hoang và sự chiếm đóng của Hoa Kỳ dưới quyền tướng Mac Arthur. Việc nhập khẩu cà phê bột ngừng lại cho mãi đến năm 1949 mới được bãi bỏ. Từ đó cà phê chỉ lan ra theo cách nhỏ giọt. Từ khoảng 1960 với trào lưu Hiện sinh và phong cách Paris của những quán cà phê văn nghệ sĩ trở thành thời thượng trong lớp thanh niên thị dân, nhất là sinh viên, học sinh.

   
Đến 1965, Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới phát động kan kofi (canned coffee) gọi là Miracoffee tức là cà phê đóng vào lon của Công ty UCC Ueshima Coffe chỉ bốn năm sau với chiến dịch phát động tiếp thị quần chúng và thành công rực rỡ trong toàn quốc. Đến năm 1973 các máy bán tự động thức uống cả nóng và lạnh được đưa vào thị trường tiếp sau việc phát hành đồng tiền kim loại mệnh giá 100 yen thì việc quảng bá thực sự đạt mức đều khắp. Trước đó, cà phê hòa tan cũng là một phát minh của người Nhật.

 
Syphon là cách pha chế cà phê da trên nguyên lý thm thu ngược, khi ngun t Đc, đã du nhp đu tiên vào Kyoto t nhng năm 1950 và được người Nht ci biến thành mt ngh thut tuyt vi. Ngày nay, quán cà phê Hanafusa ti Kyoto vn gi nguyên phong cách cũng như dng c pha chế syphon t thi đó. Thi gian gn đây, kiu pha chế này li tr nên ph biến như mt cách làm thương hiu và hình nh hiu qu th hin phong cách pha chế đin hình ca Nht.


Trong số 3 quốc gia tiêu thụ cà phê nhiều nhất thế giới (Mỹ, Đức, Nhật) thì khẩu vị của người Nhật “nặng nhất”, thường tới 13 gr/tách espresso thông thường. Ở mỗi một vùng, khẩu vị cũng khác nhau, người Osaka uống nặng nhất, rồi tới Kyoto, Tokyo. Người Tokyo thích uống cà phê kiểu Mỹ, nhẹ hơn, chỉ khoảng 9-10 gr/tách. Cà phê espresso và cà phê tươi từ đầu thế kỷ 21 bắt đầu trở lại khi Nhật Bản bừng tỉnh với suy thoái kinh tế tài chính và thấy cần thay đổi cả văn hóa, phong cách sống vì tự do, hạnh phúc và sáng tạo.


Nguồn: Hiểu về Cà phê - Bản quyền thuộc Trung Nguyên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét